0931 79 92 92

BÌNH LUẬN ÁN LỆ SỐ 03/2016/AL

BÌNH LUẬN ÁN LỆ SỐ 03/2016/AL

“Quan điểm trong nghiên cứu này là của các tác giả và không đại diện cho Tòa án nhân dân tối cao, Liên minh Châu âu và Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc”

(Trích) ÁN LỆ SỐ 03/2016/AL

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nội dung cơ bản

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 208/2013/DS-GĐT ngày 03-5-2013 của Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao về vụ án “Ly hôn” tại Hà Nội giữa nguyên đơn là chị Đỗ Thị Hồng với bị đơn là anh Phạm Gia Nam; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phạm Gia Phác, bà Phùng Thị Tài, anh Phạm Gia Ơn, chị Phạm Thị Lữ, anh Bùi Văn Đáp, chị Đỗ Thị Ngọc Hà.

Khái quát nội dung của án lệ:

Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

  • Điều 14 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986;
  • Điều 242 của Bộ luật Dân sự năm 1995;
  • Khoản 2 Điều 176 của Bộ luật Dân sự năm 1995.

Từ khoá của án lệ:

“Ly hôn”; “Tài sản chung của vợ chồng”; “Tặng cho tài sản”; “Căn cứ xác lập quyền sở hữu”; “Xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận”.

Nội dung án lệ:

“Theo xác minh tại Uỷ ban nhân dân xã Vân Tảo thì năm 2001 xã tổ chức cho các hộ dân trong xã Vân Tảo đăng ký kê khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và các hộ kê khai tại trụ sở thôn xóm (BL 103). Tất cả các hộ dân trong xã đều được biết về chủ trương kê khai đất này. Ông Phác là chủ đất nhưng không đi kê khai. Anh Nam đang ở trên đất và là người đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Ngày 21-12-2001 anh Nam được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645 đứng tên hộ ông Phạm Gia Nam. Vợ chồng anh chị đã xây nhà 2 tầng kiên cố vào năm 2002 và đến năm 2005 thì xây thêm tum tầng 3. Ông Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết việc xây dựng trên của vợ chồng anh Nam chị Hồng, nhưng cũng không ai có ý kiến gì. Như vậy, từ khi được cấp giấy chứng nhận (2001) cho đến khi có việc ly hôn của anh Nam, chị Hồng (2009), gia đình ông Phác cũng không ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này. Điều đó thể hiện ý chí của gia đình ông Phác là đã cho anh Nam và chị Hồng diện tích đất nêu trên. Do đó, việc ông Phác và anh Nam khai rằng anh Nam tự ý kê khai giấy tờ đất, ông Phác không biết là không có cơ sở chấp nhận. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai của chị Hồng về việc gia đình ông Phác đã cho anh chị diện tích đất trên, là có cơ sở. Do đó, việc Tòa án các cấp nhận định rằng anh Nam đi làm giấy tờ đất ông Phác không biết và việc chị Hồng khai gia đình chồng đã cho vợ chồng nhưng không có chứng cứ chứng minh, để xác định diện tích đất 80m2 tại thôn Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội là tài sản thuộc hộ gia đình ông Phạm Gia Phác; đồng thời buộc anh Nam, chị Hồng trả lại đất cho gia đình ông Phác, là không đúng. Cần phải xác định diện tích đất tranh chấp trên là tài sản chung của vợ chồng anh Nam, chị Hồng và khi chia phải coi anh Nam có công sức đóng góp nhiều hơn để chia theo công sức của mỗi bên và cần phải căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để chia hiện vật cho các bên nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.”

BÌNH LUẬN

I. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ

1. Bộ luật Dân sự năm 1995

“Điều 176. Căn cứ xác lập quyền sở hữu 2 Quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản trong các trường hợp sau đây: … 2- Được chuyển giao quyền sở hữu theo thoả thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; ….”

“Điều 242. Xác lập quyền sở hữu theo thoả thuận 3 Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay có quyền sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm nhận tài sản, nếu không có thoả thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác.”

2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986

“Điều 144. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân,
tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được cho chung.”

II. Sự cần thiết phải công bố án lệ

Khi giải quyết các tranh chấp về tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, một trong những chứng cứ có ý nghĩa then chốt để xác định có việc tặng cho hay không chính là hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Tuy nhiên, trong trường hợp các bên tranh chấp không ký kết hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đó thì Tòa án phải căn cứ vào những chứng cứ, sự kiện pháp lý nào để xác định có hay không có việc tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trên thực tế.

Vụ việc tạo lập nên Án lệ số 03/2016/AL là một trong các trường hợp nêu trên, cụ thể: Chị Đỗ Thị Hồng và anh Phạm Gia Nam kết hôn năm 1992. Ngày 18-4-2009, chị Hồng khởi kiện xin ly hôn anh Nam và anh Nam cũng đồng ý. Trong quá trình chung sống thì vợ chồng anh Nam, chị Hồng có xây nhà hai tầng vào năm 2002 (năm 2005 xây thêm một tum để chống nóng) trên thửa đất 80m2 tại xóm Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín. Nguồn gốc diện tích đất nêu trên là của ông Phạm Gia Phác được Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo, huyện Thường Tín cấp đất giãn dân vào năm 1992. Vợ chồng anh Nam, chị Hồng thống nhất căn nhà trên đất là tài sản chung của vợ chồng. Riêng về đất thì các bên không thống nhất được với nhau. Chị Hồng cho rằng gia đình ông Phác đã tuyên bố cho vợ chồng chị diện tích đất nêu trên, ông Phác và anh Nam khẳng định gia đình chưa cho vợ chồng anh Nam, chị Hồng.

Để giải quyết tranh chấp này, Tòa án nhân dân tối cao đã đưa ra phán quyết như sau:

“Theo xác minh tại Uỷ ban nhân dân xã Vân Tảo thì năm 2001 xã tổ chức cho các hộ dân trong xã Vân Tảo đăng ký kê khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và các hộ kê khai tại trụ sở thôn xóm (BL 103). Tất cả các hộ dân trong xã đều được biết về chủ trương kê khai đất này. Ông Phác là chủ đất nhưng không đi kê khai. Anh Nam đang ở trên đất và là người đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Ngày 21-12-2001 anh Nam được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645 đứng tên hộ ông Phạm Gia Nam. Vợ chồng anh chị đã xây nhà 2 tầng kiên cố vào năm 2002 và đến năm 2005 thì xây thêm tum tầng 3. Ông Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết việc xây dựng trên của vợ chồng anh Nam chị Hồng, nhưng cũng không ai có ý kiến gì. Như vậy, từ khi được cấp giấy chứng nhận (2001) cho đến khi có việc ly hôn của anh Nam, chị Hồng (2009), gia đình ông Phác cũng không ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này. Điều đó thể hiện ý chí của gia đình ông Phác là đã cho anh Nam và chị Hồng diện tích đất nêu trên.

Do đó, việc ông Phác và anh Nam khai rằng anh Nam tự ý kê khai giấy tờ đất, ông Phác không biết là không có cơ sở chấp nhận. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai của chị Hồng về việc gia đình ông Phác đã cho anh chị diện tích đất trên, là có cơ sở. Do đó, việc Tòa án các cấp nhận định rằng anh Nam đi làm giấy tờ đất ông Phác không biết và việc chị Hồng khai gia đình chồng đã cho vợ chồng nhưng không có chứng cứ chứng minh, để xác định diện tích đất 80m2 tại thôn Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội là tài sản thuộc hộ gia đình ông Phạm Gia Phác; đồng thời buộc anh Nam, chị Hồng trả lại đất cho gia đình ông Phác, là không đúng, cần phải xác định diện tích đất tranh chấp trên là tài sản chung của vợ chồng anh Nam, chị Hồng và khi chia phải coi anh Nam có công sức đóng góp nhiều hơn để chia theo công sức của mỗi bên và cần phải căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để chia hiện vật cho các bên nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.”

Với tình huống như trên, có quan điểm cho rằng nhà là tài sản chung của vợ chồng anh Nam, chị Hồng còn quyền sử dụng đất là của ông Phác vì lý do không tồn tại hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Phác và vợ chồng anh Nam, chị Hồng nên không thể coi là ông Phác đã tặng cho vợ chồng anh Nam, chị Hồng quyền sử dụng đất đó. Tuy nhiên, có quan điểm khác cho rằng, từ các tình tiết xác minh được trong quá trình giải quyết vụ án, cụ thể là: tất cả các hộ dân trong xã đều được biết về chủ trương kê khai đất nhưng ông Phác không đi kê khai; anh Nam đang ở trên đất đã thực hiện việc kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; vợ chồng anh Nam, chị Hồng đã xây nhà 2 tầng kiên cố trên đất; ông Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết việc xây dựng trên của vợ chồng anh Nam, chị Hồng cũng không ai có ý kiến gì. Do vậy, có cơ sở khẳng định ý chí của gia đình ông Phác là đã cho vợ chồng anh Nam và chị Hồng diện tích đất nêu trên. Để hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự như trên phải được giải quyết như nhau, Tòa án nhân dân tối cao đã lựa chọn Quyết định giám đốc thẩm số 208/2013/DS-GĐT ngày 03-5-2013 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao để phát triển thành Án lệ số 03/2016/AL về trường hợp cha mẹ tặng cho vợ chồng người con quyền sử dụng đất trên thực tế.

III. Nội dung án lệ

Vị trí nội dung án lệ trong Quyết định giám đốc thẩm số 208/2013/DS-GĐT là đoạn 5 và 6 phần Nhận định của Tòa án, cụ thể:

“Theo xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo thì năm 2001 xã tổ chức cho các hộ dân trong xã Vân Tảo đăng ký kê khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và các hộ kê khai tại trụ sở thôn xóm (BL 103). Tất cả các hộ dân trong xã đều được biết về chủ trương kê khai đất này. Ông Phác là chủ đất nhưng không đi kê khai. Anh Nam đang ở trên đất và là người đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Ngày 21-12-2001 anh Nam được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645 đứng tên hộ ông Phạm Gia Nam. Vợ chồng anh chị đã xây nhà 2 tầng kiên cố vào năm 2002 và đến năm 2005 thì xây thêm tum tầng 3. Ông Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết việc xây dựng trên của vợ chồng anh Nam chị Hồng, nhưng cũng không ai có ý kiến gì. Như vậy, từ khi được cấp giấy chứng nhận (2001) cho đến khi có việc ly hôn của anh Nam, chị Hồng (2009), gia đình ông Phác cũng không ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này. Điều đó thể hiện ý chí của gia đình ông Phác là đã cho anh Nam và chị Hồng diện tích đất nêu trên. Do đó, việc ông Phác và anh Nam khai rằng anh Nam tự ý kê khai giấy tờ đất, ông Phác không biết là không có cơ sở chấp nhận. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai của chị Hồng về việc gia đình ông Phác đã cho anh chị diện tích đất trên, là có cơ sở.

Do đó, việc Tòa án các cấp nhận định rằng anh Nam đi làm giấy tờ đất ông Phác không biết và việc chị Hồng khai gia đình chồng đã cho vợ chồng nhưng không có chứng cứ chứng minh, để xác định diện tích đất 80m2 tại thôn Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội là tài sản thuộc hộ gia đình ông Phạm Gia Phác; đồng thời buộc anh Nam, chị Hồng trả lại đất cho gia đình ông Phác, là không đúng, cần phải xác định diện tích đất tranh chấp trên là tài sản chung của vợ chồng anh Nam, chị Hồng và khi chia phải coi anh Nam có công sức đóng góp nhiều hơn để chia theo công sức của mỗi bên và cần phải căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để chia hiện vật cho các bên nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.”

Án lệ nêu trên đã đề cập đến việc tặng cho quyền sử dụng đất trên thực tế với tình huống án lệ là cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất nhưng không có chứng cứ pháp lý rõ ràng chứng minh cho việc tặng cho đó. Vậy, trong trường hợp này Tòa án xác định việc có hay không sự kiện tặng cho quyền sử dụng đất đó như thế nào? Án lệ số 03/2016/AL đã đưa ra giải pháp pháp lý là phải xác định có việc tặng cho quyền sử dụng đất trên thực tế nếu có các tình tiết sau đây:

Thứ nhất, vợ chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở. Trong vụ việc tạo lập nên Án lệ, vợ chồng anh Nam, chị Hồng đã xây dựng nhà hai tầng vào năm 2002 (năm 2005 xây thêm một tum để chống nóng). Việc xây nhà để làm nơi ở trên đất thể hiện nguyện vọng sinh sống lâu dài, ổn định trên mảnh đất đó của vợ chồng người con. Nếu thực sự không được cha mẹ tặng cho quyền sử dụng đất thì khó có thể xảy ra việc vợ chồng người con đầu tư công sức, tiền bạc để xây dựng nhà kiên cố trên đất.

Thứ hai, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình đều biết nhưng không có ý kiến cũng như phản đối gì. Trong vụ việc nêu trên, ông Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết việc xây dựng trên của vợ chồng anh Nam, chị Hồng nhưng không ai có ý kiến gì. Việc không có ý kiến phản đối trong trường hợp này là một minh chứng thể hiện ý chí của cha mẹ là đã tặng cho con quyền sử dụng đất bởi nếu không có việc tặng cho quyền sử dụng đất đó thì khi người con xây dựng nhà kiên cố trên đất, ông Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đã có hành động phản đối, cản trở lại việc chiếm hữu, sử dụng trái phép của vợ chồng anh Nam, chị Hồng. Vì vậy, tình tiết này được coi là điều kiện có ý nghĩa then chốt để thừa nhận việc tặng cho quyền sử dụng đất trên thực tế.

Thứ ba, vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định. Trong vụ việc nêu trên, vợ chồng anh Nam, chị Hồng đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định từ năm 2002 đến năm 2009. Việc sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định của vợ chồng anh Nam, chị Hồng cũng là một biểu hiện của việc thực thi quyền của chủ sở hữu đối với quyền sử dụng đất và nhà ở gắn liền với đất.

Thứ tư, vợ chồng người con đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong vụ việc trên, theo xác minh trong quá trình giải quyết vụ án thì “tất cả các hộ dân trong xã đều được biết về chủ trương kê khai đất này”.

Tuy nhiên, gia đình ông Phác không thực hiện việc kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất; anh Nam là người đã thực hiện việc kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất mà không gặp bất kỳ sự phản đối nào. Tình tiết này góp phần khẳng định ý chí của gia đình ông Phác là đã tặng cho vợ chồng anh Nam, chị Hồng quyền sử dụng đất đó. Việc vợ chồng anh Nam, chị Hồng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chính là sự ghi nhận vợ chồng anh Nam, chị Hồng là chủ sử dụng hợp pháp đối với tài sản là quyền sử dụng đất.

IV. Các tình huống tương tự có thể áp dụng án lệ số 03/2016/AL

Án lệ số 03/2016/AL được tạo lập nhằm hướng dẫn các Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến tặng cho quyền sử dụng đất trên thực tế với khái quát nội dung án lệ như sau: Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất.

Trong Án lệ này, chủ thể tặng cho quyền sử dụng đất là cha mẹ, chủ thể được tặng cho quyền sử dụng đất là vợ chồng người con, đều là các thành viên trong gia đình. Như vậy, nếu chủ thể tặng cho là ông bà; chủ thể được tặng cho là vợ chồng người cháu, một hoặc nhiều người cháu, một hoặc nhiều người con thì khi giải quyết các vụ việc có các tình tiết tương tự trong Án lệ số 03/2016/AL như đã phân tích ở mục III nêu trên, Tòa án có thể nghiên cứu xem xét áp dụng tương tự các giải pháp pháp lý của án lệ này..


.
.
.
.
# # #